3 dấu hiệu chính của bệnh cổ tử cung, nhiều chị em lơ là

Mỗi khi đến mùa khám sức khỏe, phòng khám cổ tử cung lại đón tiếp rất nhiều chị em mang theo giấy khám sức khỏe đến tư vấn: "Bác sĩ ơi, khám sức khỏe nói cổ tử cung của tôi có vấn đề!". Hỏi kỹ hơn thì thấy mỗi người có một nỗi niềm riêng.

"Xói mòn cổ tử cung nghĩa là gì?"; "Xói mòn cổ tử cung có nghiêm trọng không?"; "HPV nguy cơ cao có thể dẫn đến ung thư không?"; "Tôi bị polyp cổ tử cung. Tôi có cần phẫu thuật cắt bỏ không?". Do đặc điểm giải phẫu của cổ tử cung, các bác sĩ có thể dễ dàng quan sát thấy nhiều thay đổi sinh lý và bất thường bệnh lý, và những bất thường này có thể dễ dàng biểu hiện thành các triệu chứng tương ứng. Hôm nay, chúng ta sẽ xem xét các triệu chứng và nguyên nhân có thể gây ra bệnh cổ tử cung.

3 dấu hiệu chính của bệnh cổ tử cung, nhiều chị em lơ là- Ảnh 1.

Ảnh minh họa: Pinterest

Các dấu hiệu có thể có của bệnh cổ tử cung

Do cổ tử cung, tử cung và âm đạo nằm liền kề nhau, bất kỳ tình trạng liên quan nào cũng có thể biểu hiện dưới dạng chảy máu bất thường, khí hư bất thường và các triệu chứng ở bụng dưới và vùng chậu, đòi hỏi bác sĩ phải xác định cẩn thận dựa trên tiền sử bệnh và khám lâm sàng. Tuy nhiên, các triệu chứng sau đây có liên quan chặt chẽ đến bệnh lý cổ tử cung và cần được chăm sóc y tế và điều trị kịp thời nếu xuất hiện.

- Chảy máu tiếp xúc và chảy máu không đều: Chảy máu tiếp xúc (như chảy máu sau nhĩ) là dấu hiệu của tổn thương cổ tử cung hoặc thậm chí là ung thư cổ tử cung.Tất nhiên, không phải tất cả chảy máu tiếp xúc đều liên quan đến ung thư cổ tử cung. Polyp cổ tử cung, viêm cổ tử cung, tổn thương lạc nội mạc tử cung ở cổ tử cung, và thậm chí cả tình trạng biểu mô trụ sinh lý bị lộn ngược cũng có thể gây ra các triệu chứng này.

- Tiết dịch bất thường: Tăng tiết dịch âm đạo có mủ, có mùi hôi và màu vàng có thể là biểu hiện của viêm cổ tử cung và âm đạo; polyp cổ tử cung cũng có thể gây ra các đợt viêm tái phát; khí hư bất thường có thể liên quan đến tổn thương cổ tử cung hoặc thậm chí là khối u cổ tử cung.

- Khó chịu âm đạo: Ngứa và nóng rát ở âm hộ, đau khi giao hợp có thể liên quan đến bệnh viêm cổ tử cung.

Những thay đổi sinh lý và bệnh lý thường gặp ở cổ tử cung

Những thay đổi bệnh lý ở cổ tử cung thường được phát hiện trong quá trình khám sức khỏe và khám phụ khoa. Vậy đâu thực sự là dấu hiệu của bệnh cổ tử cung và đâu không cần lo lắng?

- U tân sinh cổ tử cung: Hầu hết các trường hợp là polyp cổ tử cung. Nguyên nhân cụ thể gây ra polyp cổ tử cung hiện chưa được biết rõ, nhưng tình trạng viêm mãn tính ở ống cổ tử cung và các yếu tố nội tiết tố có thể đóng vai trò. Polyp có thể gây ra các triệu chứng như tăng tiết dịch và chảy máu.

Polyp nông có thể được cắt bỏ trực tiếp hoặc bằng phương pháp soi cổ tử cung, nhưng polyp ăn sâu, lớn hoặc nằm trong cổ tử cung có thể cần phải nội soi tử cung. Polyp hiếm khi trở thành ác tính, nhưng không phải mọi khối u bạn nhìn thấy đều là polyp. Một số tổn thương ác tính, chẳng hạn như ung thư biểu mô tuyến cổ tử cung, cũng có thể xuất hiện dưới dạng khối u và có thể rất giống polyp, khiến chúng khó phân biệt bằng mắt thường. Do đó, tất cả các khối u nên được cắt bỏ và xét nghiệm bệnh lý sẽ xác định xem chúng là polyp hay các tổn thương khác.

- U nang tuyến cổ tử cung: Tình trạng này thường được gọi là "u nang Naboth", có thể hiểu đơn giản là một "mụn nhọt" ở cổ tử cung. Nó thường không gây ra triệu chứng và không cần điều trị.

- Viêm cổ tử cung: Viêm cổ tử cung cấp tính thường do tác nhân gây bệnh gây ra và có thể điều trị bằng kháng sinh. Viêm cổ tử cung mãn tính, được xác định bằng xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung và sinh thiết, thường không cần điều trị nếu không có triệu chứng.

- Phì đại cổ tử cung: Tình trạng này có thể do viêm mãn tính gây ra. Nếu kết quả sàng lọc bình thường và không có triệu chứng, nhìn chung không cần điều trị.

- Nhiễm trùng HPV và tổn thương cổ tử cung: HPV nguy cơ cao được coi là "thủ phạm" của hầu hết các bệnh ung thư cổ tử cung. HPV nguy cơ thấp thường không gây ung thư cổ tử cung, nhưng có thể gây ra các tổn thương giống mụn cóc. Nhiễm trùng dai dẳng với HPV nguy cơ cao có thể phát triển thành tân sinh biểu mô cổ tử cung mức độ cao, đây là một "tổn thương tiền ung thư". Nếu không được điều trị, hơn 30% trong số đó có thể tiến triển thành ung thư cổ tử cung trong vòng 30 năm. Nhưng đừng hoảng sợ! 90% các trường hợp nhiễm HPV, nếu hệ miễn dịch bình thường, có thể chuyển sang âm tính trong vòng 2 năm, và quá trình tiến triển của nhiễm HPV thành ung thư cổ tử cung là một quá trình trung bình kéo dài vài năm hoặc thậm chí hàng thập kỷ, vì vậy vẫn còn đủ thời gian để phát hiện sớm các tổn thương tiền ung thư, chủ động điều trị và ngăn ngừa ung thư cổ tử cung. Ngoài ra, ngay cả khi đã tiêm vắc-xin HPV, bạn vẫn nên tầm soát định kỳ.

- Xói mòn cổ tử cung: Thuật ngữ "xói mòn" nghe có vẻ đáng lo ngại, nhưng tóm lại, "xói mòn cổ tử cung" chỉ đơn giản là mô tả những gì nhìn thấy bằng mắt thường trên cổ tử cung. Nó không cho biết liệu có tổn thương hay không, và các sách giáo khoa y khoa từ lâu đã loại nó ra khỏi danh sách bệnh. Tình trạng này liên quan đến tuổi tác, tác động của estrogen và progesterone, cùng các yếu tố khác. Nếu không kèm theo các bất thường hoặc triệu chứng sàng lọc khác, việc điều trị là không cần thiết.

Cổ tử cung là một cấu trúc rỗng, hình trụ, nối với tử cung ở phía trên và âm đạo ở phía dưới, giống như một chiếc bánh rán. Là người gác cổng của tử cung, cổ tử cung đóng một vai trò quan trọng, nhưng cũng dễ bị tổn thương. Ví dụ, các tổn thương tiền ung thư cổ tử cung, và thậm chí cả ung thư cổ tử cung giai đoạn đầu, thường không có triệu chứng. 

Do đó, nên tầm soát cổ tử cung thường xuyên cho tất cả phụ nữ có hoạt động tình dục, trong đó HPV kết hợp với sàng lọc tế bào học là phương pháp được ưu tiên. Nếu phát hiện bất thường trong quá trình soi cổ tử cung, nên chuyển ngay đến soi cổ tử cung vì điều này có thể phát hiện các tổn thương tiền ung thư mà mắt thường không nhìn thấy được. Nếu phát hiện bất thường trong quá trình soi cổ tử cung, sinh thiết đồng thời có thể xác nhận sự hiện diện của các tổn thương tiền ung thư sớm, cho phép chẩn đoán và điều trị, do đó ngăn ngừa sự phát triển của ung thư cổ tử cung.

Nguồn: QQ

Nguyệt Quang