Càn Long lên ngôi, câu hỏi "hợp táng" tưởng như không cần hỏi
Tháng 8 năm 1735, hoàng đế Ung Chính đột ngột qua đời tại Viên Minh Viên, hưởng thọ 58 tuổi. Khi ấy, Hoằng Lịch mới 24 tuổi kế vị, đổi niên hiệu thành Càn Long. Theo chế độ tang táng nhà Thanh, Ung Chính được an táng tại Thái Lăng (Tây Thanh Lăng), hợp táng cùng nguyên phối Hiếu Kính Hiến hoàng hậu và Đôn Túc hoàng quý phi là người được ông sủng ái nhất khi sinh thời.
Xét theo lễ nghi, sinh mẫu của tân hoàng đế là Nữu Hỗ Lộc thị hoàn toàn có tư cách được hợp táng. Vì thế, Càn Long kính cẩn hỏi mẹ: "Sau này trăm năm, mẫu hậu có muốn hợp táng cùng phụ hoàng không?"
Không ai ngờ, câu trả lời lại chỉ gói gọn trong ba chữ: "Không cần nữa."

Càn Long kính cẩn hỏi Nữu Hỗ Lộc thị có muốn hợp táng cùng phụ hoàng. (Ảnh: Sohu)
Nữu Hỗ Lộc thị – "Chân Hoàn ngoài đời thực" và con đường lặng lẽ bước lên đỉnh quyền lực
Nữu Hỗ Lộc thị chính là nguyên mẫu lịch sử của nhân vật Chân Hoàn ngoài đời thực, nhưng cuộc đời thật của bà lại khác xa hình ảnh kịch tính trên màn ảnh. Không phải đại mỹ nhân, cũng không xuất thân từ thế gia hiển hách, bà bước vào phủ Tứ A Ca Dận Chân năm 13 tuổi với thân phận cách cách là địa vị thấp kém trong hậu viện hoàng tử.
Suốt bảy năm, bà gần như vô hình trong phủ. Bước ngoặt chỉ đến khi Dận Chân lâm trọng bệnh, mọi người đều tránh né, chỉ có Nữu Hỗ Lộc thị ngày đêm chăm sóc không rời. Sự tận tụy ấy khiến Dận Chân lần đầu chú ý đến người thị thiếp âm thầm này.
Sau đó, bà sinh ra Hoằng Lịch và cũng là người sau này trở thành Càn Long. Nhờ đứa con xuất chúng được Khang Hy đặc biệt yêu quý, số phận của Nữu Hỗ Lộc thị bắt đầu đổi chiều theo con đường vinh hiển nhờ quý tử.

Nữu Hỗ Lộc thị chính là nguyên mẫu lịch sử của nhân vật Chân Hoàn ngoài đời thực. (Ảnh: Sohu)
Được phong phi, quý phi, nhiếp lý hậu cung nhưng chưa từng được yêu như một người vợ
Sau khi Ung Chính lên ngôi, Nữu Hỗ Lộc thị lần lượt được phong Hy phi, Hy quý phi. Năm Ung Chính thứ 9, khi hoàng hậu qua đời, bà được giao quyền quản lý hậu cung, địa vị đã ở đỉnh cao nữ nhân thiên hạ.
Thế nhưng, điều mà nhiều sử gia chỉ ra là sự thăng tiến của bà mang tính lễ chế nhiều hơn là tình cảm. Ung Chính sủng ái Đôn Túc hoàng quý phi, tôn trọng Hiếu Kính hoàng hậu, còn với Nữu Hỗ Lộc thị, ông dành cho bà nhiều nghĩa vụ hơn là ái tình.
Chính vì vậy, dù khi còn sống ở địa vị thấp, khi chết có thể được hợp táng, nhưng với bà, điều đó không mang ý nghĩa viên mãn.

Sau khi Ung Chính lên ngôi, Nữu Hỗ Lộc thị lần lượt được phong Hy phi, Hy quý phi. (Ảnh: Sohu)
Vì sao Hoàng thái hậu từ chối vinh dự tối cao của hậu cung?
Theo Sohu và Sina, bề ngoài, Nữu Hỗ Lộc thị viện dẫn lý do không muốn kinh động tới địa cung, lại có tiền lệ hoàng hậu không hợp táng trong lịch sử nhà Thanh. Nhưng phía sau là những nguyên nhân sâu xa hơn.
Thứ nhất, bà hiểu rõ mình chưa từng là người được Ung Chính yêu thương thật sự.
Thứ hai, Thái Lăng đã có hoàng hậu và sủng phi, nếu nhập táng, bà vẫn chỉ là "người đứng sau".
Thứ ba, khi đã trở thành Hoàng thái hậu, bà không còn muốn tồn tại dưới thân phận phi tần của Ung Chính, mà là sinh mẫu của thiên tử.
Thứ tư, bà đủ quyền lực để tự quyết nơi an nghỉ vốn là điều hiếm có với phụ nữ phong kiến.
Nói cách khác, đây không phải là sự từ chối vì không đủ tư cách, mà là tuyên bố cuối cùng về quyền lựa chọn của một người phụ nữ từng chịu đựng cả đời trong im lặng.

Càn Long sau phút ngạc nhiên đã hoàn toàn tôn trọng quyết định của mẹ. (Ảnh: Sohu)
"Sinh thời ngài không yêu ta, chết rồi ta cũng không cần ở cạnh"
Càn Long sau phút ngạc nhiên đã hoàn toàn tôn trọng quyết định của mẹ. Ông cho xây riêng Thái Đông Lăng ở phía đông Thái Lăng để an táng Nữu Hỗ Lộc thị sau này.
Năm Càn Long thứ 42, bà qua đời an nhiên ở tuổi 86 và trở thành Hoàng thái hậu sống thọ và "có phúc" bậc nhất triều Thanh. Càn Long truy phong bà là Hiếu Thánh Hiến hoàng hậu, làm lễ an táng long trọng đúng theo di nguyện.
Lịch sử thường tôn vinh những người được chôn cạnh hoàng đế. Nhưng với "Chân Hoàn ngoài đời thực", sự tôn quý lớn nhất không nằm ở lăng mộ chung, mà ở quyền được nói "không" vốn một chữ "không" khiến cả hậu cung phải lặng im.
Theo Sohu, Sina, 163